Quảng Bình là một trong 6 tỉnh nằm ở vùng Bắc Trung với diện tích tự nhiên là 8.065 Km2 với một vị trí chiến lược có tầm quan trọng về nhiều mặt. Quảng Bình là vùng đất nằm trải dài từ 18005' xuống 16055' vĩ Bắc và từ 105037' đến 107000' kinh Đông. Phía Bắc giáp Hà Tĩnh, phía Nam giáp Quảng Trị, phía Tây giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào với đường biên giới là 201,87km, phía Đông là bờ biển dài hơn 116km. Trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, Quảng Bình luôn có vị trí quan trọng. Mảnh đất, con người Quảng Bình được Tổ quốc, dân tộc giao cho sứ mệnh lịch sử thiêng liêng đứng mũi chịu sào, đầu sóng ngọn gió trong các cuộc đấu tranh xã hội và chiến đấu chống ngoại xâm.
“ Ra Bắc vào nam có
nơi đâu ta yêu ta quí
Nơi đây quê mẹ yêu
thương,
Chắt chiu năm nắng
mười sương
Cho quê ta đẹp mãi
câu hò
Quảng Bình ơi, nước Kiến
Giang không bao giờ cạn
Sóng vẫn reo Nhật
Lệ, Bảo Ninh vang câu hò Mẹ Suốt”
( Quảng Bình trong câu hát- Xuân Đông)

Lược đồ Quảng Bình
Là đoạn
cuối của dãy Trường Sơn trùng điệp, Quảng Bình nổi tiếng về những tấm lòng quả
cảm, về sự hy sinh mất mát của vùng đất tuyến đầu tổ quốc trong những năm chiến
tranh chống Mỹ. Chính những điều đó đã giúp con người Quảng Bình anh dũng, bất khuất với ý chí quyết
thắng của lòng dũng cảm, của khí phách anh hùng, của sức mạnh tinh thần và trí
tuệ Việt Nam. Hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ bộ đội, dân công hỏa
tuyến, nhân dân Quảng Bình trở thành một “lực lượng gang thép”, một tập thể anh
hùng hoàn thành trọn vẹn và đặc biệt xuất sắc sứ mệnh lịch sử mà Đảng, Bác Hồ,
Tổ quốc giao phó; góp phần tích cực cùng cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chi viện chiến lược, một nhân tố quyết định để đưa sức mạnh cả nước vào cuộc
chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Khi nhắc đến quảng
Bình là chúng ta nhắc đến những hang động được xếp vào di sản thiên nhiên của
thế giới chứa đựng nhiều dấu ấn lịch sử của sự phát triển loài người, của những
điều mà ít người biết đến. Ấy là câu chuyện của di chỉ văn hóa Bàu Tró, ấy là
câu chuyện về vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng ẩn chứa rất nhiều điều thú vị
về văn hóa của các cộng đồng thiểu số. Còn nhắc đến bờ biển Nhật Lệ , còn có làn điệu hò khoan trên dòng Kiến Giang của huyện
Lệ Thủy.
“Anh
đưa em về thăm quê anh xứ Lệ
Nơi ngọt ngào con sông thời thơ trẻ”

Một góc sông Kiến Giang
Lệ Thủy là một huyện ở phía Nam của
tỉnh Quảng Bình được mọi người biết đến là một địa phương giàu truyền thống
cách mạng, Phía nam giáp huyện Vĩnh Linh (thuộc tỉnh Quảng Trị), phía bắc giáp
huyện Quảng Ninh (Quảng Bình), phía tây giáp tỉnh Khăm muộn của Lào, phía đông
giáp Biển Đông.
Lệ Thủy, một miền
đất không được sự ưu ái của thiên nhiên, một miền đất của gió Lào và cát trắng.
Trải qua biết bao khó khăn trong lịch sử
giữ nước, thời kỳ nào mảnh đất Lệ Thủy cũng có những con người cần cù trong lao
động, anh hùng trong chiến đấu. Và khi nhắc đến những người con anh hùng ấy,
chúng ta không thể không nhắc đến một người con của quê hương An Xá- Lệ thủy,
một người thầy giáo mẫu mực, một nhà chỉ huy quân sự lỗi lạc, một vị tướng tài
ba đó chính là Đại tướng Võ Nguyên Giáp- Vị Đại tướng đầu tiên của dân tộc, vị
tướng huyền thoại.
“Tỏa sáng thế giới
Nhân nghĩa toàn tài
Ghi dấu ngàn đời
Tướng tài Việt Nam”
Đó là hình ảnh Đại
tướng Võ Nguyên Giáp trong bài hát cùng tên của nhạc sĩ Quang Vinh, Hữu Ý. Khắp trong và
ngoài nước đều biết Võ Nguyên Giáp là Đại tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân
Việt Nam Anh hùng, Người Anh Cả của đội quân từ nhân dân mà ra và bách chiến
bách thắng, lần đầu tiên trong lịch sử thế giới đánh bại hai thế lực thực dân,
đế quốc mạnh nhất của thế kỷ 20 là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong lịch sử
Quân đội nhân dân Việt Nam, Võ Nguyên Giáp là tướng duy nhất được phong
một lần quân hàm Đại tướng. Có nhiều vị tướng của cả ta và đối phương đánh giá
Tướng Giáp xứng đáng là Đại Nguyên soái. Ấy vậy mà vẻ bề ngoài của người chỉ
huy thiên tài đó, con người đặc biệt đã đi vào huyền thoại lại vô cùng bình dị,
hiền từ, dễ gần và ấm áp với mọi người, chất mộc mạc Lệ Thủy- Quảng Bình nắng gió
chịu khó chịu thương, quê hương của Đại tướng kính yêu.
Võ Nguyên Giáp còn được gọi là tướng Giáp hoặc anh Văn sinh ngày
25/08/1911 ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho,
con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân), một nhà nho đức độ và mẹ là bà Nguyễn Thị Kiên. Gia đình
Võ Nguyên Giáp có 7 anh chị
em, nhưng người anh cả và chị cả mất sớm nên còn lại năm, 3 người
con gái và 2 người con trai là Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho, sau này là Thứ
trưởng Bộ Giáo dục.

Căn nhà đại tướng ở An Xá- Lệ
Thủy
Từ lúc còn nhỏ Võ Nguyên Giáp tỏ ra là một cậu
học trò thông minh, mẫu mực. Hai năm học ở Đồng Hới hàng tháng cậu luôn đứng
đầu lớp, sau khi đậu vào Quốc học Huế ông luôn là người đứng thứ nhất. Mùa hè
năm 1928, Võ Nguyên giáp bước vào đời của một chiến sĩ cách mạng. Ông tham gia
làm báo ở một nhà xuất bản do Tổng bộ Tân Việt chủ trương.
Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham
gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương,
là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông
Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng. Tháng 5 năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận
dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục
Thăng Long, Hà Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà
trường.
Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm 1940 và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt
Nam Độc lập Đồng minh Hội, một tổ
chức chống phát- xít và đấu tranh cho độc
lập của Việt Nam. Sau khi từ Trung Quốc trở về Cao bằng, Ông tham gia xây dựng cơ sở cách mạng,
mở lớp huấn luyện quân
sự cho Việt
Minh ở Cao
Bằng. Trong thời gian này, Pháp tăng
cường càn quét Việt Bắc, ai mang tài liệu Việt Minh sẽ bị bắn ngay. Võ Nguyên
Giáp nhớ lại: Trong thời gian này, ông
thường mang theo một quả lựu
đạn để nếu bị bắt thì sẽ cho nổ để vừa chết nhanh chóng
vừa kéo theo được vài tên địch.

Võ Nguyên Giáp ( ngoài cùng bên trái) trong
buổi lễ
thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo hướng dẫn của Hồ Chí Minh,
ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với
34 người, được trang bị 2 súng thập (một
loại súng ngắn),
17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy.
Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp đã
chỉ huy đội quân này lập chiến công đầu tiên là tập kích diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông
bắt đầu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống lại sự trở lại của
người Pháp (1945-1954) trên cương
vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ. Không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào
trước đó, không phải trải qua các cấp bậc quân hàm trong quân đội, Võ Nguyên
Giáp được phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28
tháng 5 năm 1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20
tháng 1 năm 1948, Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân
dân Việt Nam khi 37 tuổi. Sau
này, trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Hồ Chí Minh đã nói:
"Đánh thắng đại tá phong đại tá,
đánh thắng thiếu tướng phong thiếu tướng, thắng trung tướng phong trung tướng,
thắng đại tướng phong đại tướng"
Từ tháng 8 năm 1945 Võ Nguyên Giáp là một trong 5 ủy viên Ban Thường vụ
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dươngvà trở thành ủy viên Bộ Chính trị (thay thế Ban Thường vụ Trung ương)
Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951. Như các danh tướng
Việt Nam
trong lịch sử, Võ Nguyên Giáp chú trọng nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu
chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng của ông có tên
gọi là Chiến tranh nhân dân kế thừa quan điểm quân sự Hồ Chí Minh,
tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, tri thức quân sự thế giới, lý luận
quân sự Mác-Lênin và được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân được liên tục cập nhật
trong nhiều cuộc chiến tranh mà nổi bật là chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.

Võ Nguyên Giáp duyệt đội hình danh dự của QĐVN trong cách mạng tháng 8
Trong 9 năm trường kỳ đánh Pháp, Võ
Nguyên Giáp đã có những sáng kiến quan trọng để phát huy sức mạnh quân sự và đã
trở thành những kinh nghiệm quý báu như: "Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập
trung". Với chuyên gia quân sự Trung Quốc sang giúp huấn luyện quân đội,
ông chỉ đạo chiến sĩ học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ phương pháp của nước bạn,
đồng thời nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải ghi nhớ việc tiết kiệm sinh mạng bộ đội
do Việt Nam là nước nhỏ không thể nuôi nhiều quân.
Năm 1954, Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí
Minh và Đảng Lao động tin tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra trận, Hồ
Chí Minh đã dặn dò: "Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ được
thắng không được thua vì thua là hết vốn". Ông tự tin lên kế hoạch và
chỉ huy 4 trong 6 sư đoàn bộ binh khi đó của Quân đội Nhân dân Việt Nam là 308,
304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo 351 tấn công Điện Biên Phủ,
đánh bại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của Liên hiệp Pháp. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã
nói: “ Tôi sống ngày nào, cũng là vì Đất
nước ngày đó”. Ông là con người lịch sử và là con người của thời đại, ông
đã đổi phương châm tác chiến từ: “ Đánh
nhanh giải quyết nhanh, chuyển sang đánh nhanh tiến chắc”. Một thay đổi đưa
đến chiến thắng tuyệt đối trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 được coi là
quyết định to lớn và khó khăn nhất trong cuộc đời Ông. Ông luôn lo nghĩ cho vận
mệnh của Đất nước và Ông không bao giờ đặt tính mạng của người dân, những người
chiến sĩ để đánh đổi sự tự do của Đất nước. Ông luôn coi trọng tính mạng của họ
vì vậy mà Ông đã chuyển sang “ Đánh nhanh tiến chắc” để đưa Đất nước thoát khỏi
cảnh nô lệ. Chiến thắng này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp
tại Đông Dương sau 83 năm và đã đưa Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới như
là một danh nhân quân sự Việt Nam, một người hùng của Thế giới thứ ba, nơi có những người dân bị nô
dịch đã xem Ông là thần tượng để hạ quyết tâm lật đổ chế độ thực dân xây dựng
nền độc lập của riêng mình.

Tướng Giáp báo cáo kế hoạch tấn
công Điện Biên Phủ
Các chiến dịch ông đã tham gia với tư
cách là Tư lệnh chiến dịch - Bí thư Đảng ủy trong kháng chiến chống Pháp cùng với Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm tham mưu trưởng chiến
dịch: Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947); Chiến dịch Biên giới (tháng 9 - 10,
năm 1950); Chiến dịch Trung Du (tháng 12 năm 1950); Chiến dịch Đông Bắc (năm 1951); Chiến dịch Đồng Bằng (tháng 5 năm 1951); Chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951); Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9 năm 1952); Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm 1953); Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 - 5
năm 1954).Thắng
lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ mang đậm việc tạo thế, tổ chức hậu cần,
thay đổi chiến thuật. Sau chiến dịch này, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký
kết, đặt dấu chấm hết cho sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam sau hơn 80 năm.
Nhân dân Việt Nam vui mừng hưởng độc lập chưa
được bao lâu thì đế quốc Mĩ đem quân xâm lược, công cuộc kháng chiến chống Mĩ
bảo vệ đất nước lại bắt đầu. Năm 1959, được Bộ Chính trị
đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã quyết định thành lập Đoàn 559 mở đường mòn dọc dãy Trường Sơn để tiếp ứng phong trào cách mạng miền
nam Việt Nam. Nhờ việc mở đường Trường Sơn, phong trào cách mạng và hoạt
động du kích miền Nam
phát triển rất mạnh. Sau 4 năm, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam đã thành lập
được một số đơn vị cấp trung đoàn.
Năm 1964, được Bộ Chính trị
đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã bí mật cử Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn vào
chiến trường Đông Nam Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam đánh lớn tại Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Đồng Xoài... tạo chuyển biến chiến trường và thành lập các Sư
đoàn 1, 2, 3, 5, 7, 9 nổi tiếng.
Năm 1965 quân Mỹ bắt đầu thực
hiện chiến lược chiến tranh cục bộ. Quy mô quân viễn chinh Mỹ
đã lên tới hơn 500.000 ngàn vào cuối năm 1967, cùng với đó là hàng ngàn máy
bay, trực thăng và xe thiết giáp. Đối phó với quân Mỹ, Võ Nguyên Giáp vẫn kiên
trì đường lối chiến tranh nhân dân - "trường kỳ kháng chiến"
như Chiến tranh Đông Dương trước đó. Kết quả là hai cuộc tiến công mùa khô
1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ đã thất bại, họ đã không thể tiêu diệt được quân
Giải phóng và bình định miền Nam Việt Nam trong 18 tháng như kế hoạch ban đầu,
và quân Mỹ bắt đầu sa lầy vào một cuộc chiến hao tổn, mệt mỏi và không có dấu
hiệu kết thúc. Ký giả James Fox nhận xét: tướng Giáp đã thi hành một
đường lối không quá khác biệt nhưng vô cùng hiệu quả, và quân Mỹ đã rút ra được
rất ít bài học từ người Pháp trước đó. Trong số ra ngày 9/2/1968, tạp chí Time
của Mỹ đã đăng bài viết dài, kèm theo bức ảnh vẽ trang bìa chân dung Đại tướng
Võ Nguyên Giáp với bài viết với tít lớn nổi bật, nguyên văn tiếng Anh
North VietNam: The Red Napoleon, tác giả bài viết đã dành một lượng lớn
thông tin nói về Tướng Võ Nguyên Giáp, học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhà quân sự kiệt xuất kèm theo câu nói nổi tiếng của ông những năm chiến
tranh: "Skike to win, Skike Only
when Success is Certain, if it is not, then dont' strike". (Tạm dịch:
Đánh là thắng, chỉ đánh khi chắc thắng, nếu không thắng thì không đánh).

Võ Nguyên Giáp trên tạp chi Time
Năm 1968, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tại Hà Nội phát động cuộc Tổng Tấn công và Nổi dậy Tết Mậu Thân. Bản thân
ông đã tham gia lập kế hoạch, nhưng khi Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10 và tháng
12 năm 1967 quyết định mở chiến dịch thì ông đang đi chữa bệnh ở Hungary. Ông
trở về tháng 1 năm 1968. Hội nghị Trung ương lần thứ 14 tháng 1/1968
thông qua quyết định của Bộ Chính trị quyết định Tổng tiến công. Chiến
dịch Mậu Thân làm suy yếu ý chí xâm lược của Mỹ, thúc đẩy phong trào phản chiến
ở Mỹ và trên khắp thế giới nhưng về quân sự có những tổn thất không đáng có và
có nhiều vấn đề cần rút kinh nghiệm. Cuốn hồi ức mang tên "Tổng hành dinh
trong Mùa xuân đại thắng" do Võ Nguyên Giáp xuất bản lần đầu
năm 2001 đã thuật lại những hoạt động của ông
vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1972 đến năm 1975.
Cuối năm 1972, Võ Nguyên Giáp đã bố
trí lực lượng đánh trả cuộc tập kích đường không của Không lực Mỹ suốt
12 ngày đêm. Thất bại trong chiến dịch này buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris với những điều khoản
nhân nhượng mà chính họ trước đó đã từ chối. Năm 1974, để nắm vững tình hình
thực tế chiến trường và có quyết sách đúng đắn, Đại tướng cùng Tư lệnh trưởng
Đoàn 559 Đồng Sĩ Nguyên và chính ủy Đặng Tính đã
vượt hàng trăm cây số đi thăm bộ đội Trường Sơn trên đường mòn Hồ Chí Minh và kiểm tra sự chuẩn bị cho cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy dự kiến vào mùa Xuân 1975.

Xe tăng tiến vào dinh Độc Lập năm 1975
Năm 1975, Võ Nguyên Giáp đã
tán thành đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn
địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược, xin ý kiến Bộ Chính trị
và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn "điểm huyệt"
vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng hòa tại Buôn Mê Thuột. Chính ông nhân đà thắng trận Buôn Ma Thuột,
trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3
ngày. Chính ông đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà
trong đó Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân
với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn. Mệnh lệnh nổi tiếng nhất của ông chỉ
đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh là "Thần tốc, thần tốc hơn nữa,
táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải
phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng".
Đất nước mới vừa thống nhất ngày 30
tháng 4 năm 1975, đã bị quân Khmer Đỏ vượt biên giới Tây Nam tiến vào Việt Nam
và xung đột với Việt Nam trong một thời gian dài, Khmer Đỏ được hậu thuẫn từ
Trung Quốc và sau đó có Thái Lan một phần gây xung đột biên giới với Việt Nam
từ năm 1975 mãi đến năm 1990 mới chấm dứt, đỉnh điểm là cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung,
1979 khiến chủ tịch
nước lúc đó là Tôn Đức Thắng phải
ký sắc lệnh Tổng động viên Quân đội toàn quốc, với tư cách là Bộ trưởng Bộ Quốc
Phòng, Phó tổng tư lệnh ông lại một lần nữa chỉ huy quân đội toàn quốc chiến
đấu. Sau khi cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc kết thúc, không có thay đổi
lãnh thổ đáng kể giữa Việt Nam
và Trung Quốc.
Ngày 7 tháng 2 năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ
trách Khoa học - Kỹ thuật.
Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội
Nhân dân Việt Nam. Văn Tiến Dũng là một trong những lãnh đạo quân
đội lâu năm nhất cùng thời với Võ Nguyên Giáp. Năm 1983 ông được Hội đồng Bộ trưởng phân công
kiêm nhiệm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc gia
dân số và sinh đẻ có kế hoạch khi
Ủy ban này được thành lập (cùng với một số Bộ trưởng các Bộ và Tổ chức khác làm
phó). Năm 1991, ông thôi chức ủy
viên Trung ương, Phó Thủ tướng, nghỉ hưu ở tuổi 80. Theo tiểu sử tóm tắt khi
ông mất, ông đảm nhiệm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến tháng 12/1986.
Thời gian cuối đời, ông vẫn quan tâm
và đưa ra một số lời bình luận trên mặt báo về tình hình đất nước như có bài
báo yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18,
hay cuộc gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khâu nông sản. Vào
ngày 1 tháng 11 năm 2007 ông gửi thư trong đó bày tỏ sự phản
đối chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu. Ông cũng có bài viết thực trạng và
kiến nghị 6 vấn đề "cơ bản và cấp
bách" nhằm triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục và đào
tạo của Việt Nam hiện nay. Vào
đầu năm 2009, ông góp ý về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên,
không dưới 3 lần, ông đã viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dừng dự án này, vì lý do an ninh quốc gia và vấn đề
môi trường.

Phim tài liệu về Bác
Giáp trên VTV1 đài truyền hình Việt Nam
Ngày 25 tháng 8 năm 2011, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp đã mừng đại thọ tròn 100 tuổi. Trong dịp ông bước sang tuổi 100 và tròn 70
năm tuổi đảng. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã phát biểu "Một
vị đại tướng mà đã vào sinh ra tử, chiến đấu ở những chiến trường hết sức khó
khăn, là thế hệ cận vệ học trò xuất sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh nay
đã sống trên 100 tuổi, đây là điều hết sức vui mừng..." Đại tướng cũng
thường xuyên được các chính khách hàng đầu trên thế giới đến thăm hỏi tại tư
dinh của Đại tướng. Đại tướng được coi là một tượng đài sống và có ảnh hưởng
sâu rộng đến Việt Nam, tầm
ảnh hưởng lớn trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Sau 100 tuổi, sức khỏe của ông
yếu hơn trước. Ngày 22 tháng 5 năm 2011, Đài Truyền hình Việt Nam đã phát sóng
chương trình thời sự với hình ảnh ông đang thực hiện việc bỏ phiếu thực hiện
quyền công dân của mình trong cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp, xóa đi những đồn đoán về sức khỏe của ông trên những phương tiện thông tin
không chính thống.Trong dịp Ngày Thương binh Liệt sĩ 27 tháng 7 năm 2011,
Truyền hình Quân đội nhân dân phát sóng hình ảnh Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Lê
Hữu Đức đến thăm hỏi một số tướng lĩnh cao cấp đang nằm điều trị tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108,trong đó
có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Qua theo dõi trong hình ảnh thì sức khỏe Đại tướng
đã tốt lên nhiều.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời vào
hồi 18h09 phút ngày 4 tháng 10 năm 2013, tại Viện quân y 108, Hà Nội, nơi ông nằm điều
trị từ năm 2009, hưởng thọ 103 tuổi (tuổi âm) và là Đại tướng Việt Nam
sống thọ nhất.

Khu mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Văn phòng Ban chấp hành Trung ương Đảng
thông báo tang lễ Đại tướng Võ Nguyên Giáp được tổ chức trọng thể theo nghi
thức Quốc tang trong hai ngày 12 và 13 tháng 10 năm 2013 và
ông được an táng tại quê hương Quảng Bình,
theo ý nguyện của ông và gia đình. Địa điểm an táng là khu vực Vũng Chùa -
Đảo Yến thuộc xã Quảng Đông, Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình,
nằm cách đèo Ngang khoảng 4 km.
Dẫu vẫn biết con người rồi cũng phải
kết thúc một đời người, không ai tránh khỏi sự chia li nhưng nỗi buồn cứ xâm
chiếm trong lòng toàn dân Việt Nam
khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra đi để lại niềm đau xót vô bờ trong lòng mỗi
người
Cả nước
yêu thương Bác đến nghẹn lòng,
Chúng con làm Quốc tang trên từng trang viết.
Quá đau đớn để nói lời vĩnh biệt,
Vị tướng toàn tài, đức độ - ông tiên.
Hòa trong nổi
đau thương của nhân dân cả nước, người dân tộc Bru Vân kiều ở Ngân Thủy, thầy
và trò trường PTDTBT TH&THCS Ngân Thủy cũng ngậm ngùi gạt nước mắt
tiễn đưa Người về nơi chín suối. Trước đây các em hầu như không được học và cũng chưa được đọc về Đại
tướng, chỉ nghe nói Võ Nguyên Giáp là một vị tướng tài giỏi đã lãnh
đạo quân đội nhân dân Việt Nam đánh thắng bọn thực dân, đế quốc sừng sỏ nhất
trên thế giới. Khi Đại tướng mất, các em mới có dịp được đọc, được nghe những câu
chuyện về Người, cảm động và khâm phục Đại tướng vô cùng. Đại tướng tài ba
trong lĩnh vực quân sự bao nhiêu thì lại càng giản dị, nhân ái trong cuộc sống
bấy nhiêu. Cuộc đời của đại tướng đẹp như một bài thơ Đại tướng đã sống, đã
cống hiến trọn đời mình cho dân, cho nước. Đại tướng là người kết tinh những
tinh hoa của dân tộc Việt Nam.
Tài thao lược, lòng nhân ái, tâm hồn thanh cao và rất đỗi giản dị chỉ có ở vị
Đại tướng huyền thoại - Võ Nguyên Giáp một bông hoa đất Việt đã kế thừa và phát
huy trọn vẹn ý nguyện của vị cha già dân tộc - Hồ Chí Minh.

Đi dọc theo con đường 10 lịch sử đến
ngay Km14 là bản trung tâm của xã Ngân Thủy. Bản làng đấy bạt ngàn màu
xanh, những dãy núi đá vôi uy nghi, hùng vĩ, phong cảnh thật đẹp nhưng ít ai
biết rằng cũng chính nơi đây đã từng in dấu chân của vị tướng tài ba này trong
chiến dịch đường 9 Nam
Lào. Di tích lịch sử trạm thông tin Hang A72, hang Văn công, hang ông Giáp là
những minh chứng hùng hồn nhất về cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của đất
nước nói chung và của người Vân Kiều nói riêng.

Hang Ông Giáp ở bản Khe Sung- Ngân Thủy
Nhân
kỷ niêm 110 năm ngày sinh đại tướng ( 25/8/1911- 25/8/2021), thầy và trò trường PTDTBT TH&THCS Ngân Thủy xin gửi đến Bác những lời tri ân sâu sắc nhất, cùng lời hứa nguyện quyết tâm học tập, lao động tốt góp phần công sức nhỏ bé của
mình để xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp.
Mùa thu lặng lẽ vòng tạo hóa
Đại tướng! Ngàn thu ru giấc người
Đặc biệt chúng ta hãy sống, hãy học tập
noi theo tấm gương của Bác, một người con vĩ đại, một vị tướng huyền thoại về
với cõi vĩnh hằng về với đất mẹ nhưng lòng vẫn hướng về dân, về nước... Mỗi
người trong chúng ta hãy phát huy tinh thần yêu nước, phát huy phẩm chất truyền
thống của Bộ đội Cụ Hồ để tô thắm thêm truyền thống lịch sử dân tộc.
Ngô Quốc Phương ( Tổng hợp)